Bệnh tăng huyết áp và suy thận mạn có liên hệ nhau thế nào

Tăng huyết áp là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến suy thận mạn

Nguyên nhân là do tình trạng tăng huyết áp, không được kiểm soát kéo dài gây ra áp lực cao trong cầu thận, làm giảm mức lọc cầu thận. Tổn thương trên tiểu cầu thận làm đẩy mạnh quá trình lọc protein, do đó, làm tăng bất thường lượng protein trong nước tiểu (albumin niệu vi thể hoặc protein niệu). Albumin niệu vi thể là sự xuất hiện của một lượng nhỏ albumin trong nước tiểu và thường là dấu hiệu đầu tiên của bệnh thận mạn. Protein niệu (tỷ lệ protein/creatinin ≥ 200mg/g) tăng theo tiến triển bệnh thận mạn và thường liên quan đến tiên lượng xấu về cả bệnh thận và bệnh tim mạch.


Mục tiêu điều trị

Huyết áp mục tiêu của bệnh nhân mắc bệnh thận mạn kèm hoặc không kèm đái tháo đường là dưới 130/80 mmHg. Mục đích của việc giảm huyết áp ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn là để giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do bệnh thận và bệnh tim mạch. Việc kiểm soát được huyết áp và giảm protein niệu ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn và tăng huyết áp đóng vai trò quan trọng cho việc ngăn chặn quá trình tiến triển của bệnh thận và sự phát triển hoặc trầm trọng hơn của bệnh tim mạch.

Điều trị

Sử dụng các thuốc không chỉ có tác dụng giảm huyết áp mà còn làm giảm protein niệu được ưu tiên cho hầu hết bệnh nhân mắc bệnh suy thận mạn và tăng huyết áp.

Các thuốc tác động lên hệ renin-angiotensin-aldosterol (RAAS), như thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể AT1 của angiotensin là các thuốc ưu tiên dùng điều trị bệnh tăng huyết áp cho các đối tượng bệnh nhân này.

Thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể AT1

Kết quả từ các nghiên cứu cho thấy các thuốc điều trị tăng huyết áp tác động trên hệ renin-angiotensin có hiệu quả trong phòng ngừa suy giảm chức năng thận tốt hơn so với các nhóm thuốc khác, cả trong trường hợp mức huyết áp mục tiêu đạt được là như nhau. Hiệu quả này được ghi nhận rõ rệt ở các bệnh nhân có protein niệu, nhưng ít thấy rõ trên bệnh nhân không có protein niệu.

QC: Thuốc đạm thận ketosteril 600mg

Nhìn chung, các thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế thụ thể AT1 dung nạp tốt. Các thuốc ức chế men chuyển có thể gây ho khan khó chịu, trong nhiều trường hợp cần phải thay đổi điều trị. Các thuốc ức chế thụ thể AT1 không gây ho khan. Trường hợp phù mạch tuy ít khi gặp nhưng cần thông báo với bệnh nhân bắt đầu điều trị với thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể AT1 về một số dấu hiệu và triệu chứng xuất hiện cùng phù mạch.

Thuốc lợi tiểu thiazid và thuốc lợi tiểu quai

Đối với bệnh nhân không có protein niệu, phác đồ điều trị ưu tiên vẫn chưa được xác định rõ ràng, có thể cân nhắc các nhóm thuốc khác như thiazid. Bệnh nhân mắc bệnh thận mạn và tăng huyết áp thường có hiện tượng giữ nước hoặc quá tải dịch, do đó thường cần sử dụng các thuốc lợi tiểu. Thiazid được khuyến cáo dùng cho bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn 2 và 3 (mức lọc cầu thận ≥30 ml/phút). Các thuốc này đã được chứng tỏ có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ bệnh tim mạch và tăng huyết áp.

Các thuốc lợi tiểu thiazid (clorothalidon, hydroclorothiazid) và thuốc lợi tiểu quai (bumetanid, furosemid, torsemid) đều làm tăng acid uric máu (lợi tiểu). Sự tăng đào thải dịch có thể dẫn đến sự mất cân bằng điện giải.

Bệnh nhân cần được theo dõi điện giải đồ để phát hiện các rối loạn điện giải như tăng kali máu hay hạ magnesi máu. Hiện tượng tụt huyết áp thế đứng có thể xảy ra đối với bất kỳ một thuốc điều trị tăng huyết áp nào.

Thuốc chẹn kênh calci

Các thuốc chẹn kênh calci là sự lựa chọn thứ 2 hoặc thứ 3 trong điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn. Trong khi không có nhiều sự khác biệt về tác dụng hạ huyết áp giữa các thuốc chẹn kênh calci không thuộc nhóm dihydropyridin (diltiazem, verapamil) và thuộc nhóm dihydropyridin (amlodipin, nifedipin

Thuốc kháng aldosteron

Aldosteron gây ảnh hưởng nguy hiểm đến tiến triển của bệnh thận mạn. Thuốc kháng thụ thể aldosteron (như spironolacton, triamteren) có thể được sử dụng trong điều trị bệnh thận mạn nếu sử dụng các thuốc lựa chọn đầu tay và lựa chọn hàng thứ 2 mà vẫn chưa đạt được mức huyết áp mục tiêu.

Thuốc ức chế renin

Aliskiren là thuốc ức chế renin duy nhất có mặt trên thị trường hiện nay. Thuốc này được chỉ định để điều trị tăng huyết áp dùng đơn độc hoặc phối hợp với valsartan. Các dữ liệu gần đây từ thử nghiệm ALTITUDE đã đưa ra chống chỉ định sử dụng phối hợp thuốc này với các thuốc ức chế men chuyển hoặc các thuốc ức chế thụ thể AT1 trên bệnh nhân đái tháo đường hoặc suy thận (mức lọc cầu thận dưới 60 ml/phút) do tăng nguy cơ suy thận, hạ huyết áp và tăng kali máu.

Thuốc chẹn beta

Hiện có rất ít tài liệu đánh giá tác dụng của các thuốc chẹn beta trên tiến triển của bệnh thận mạn và protein niệu. Tuy thuốc chẹn beta không được liệt kê trong bảng 2 nhưng các thuốc này có thể được cân nhắc là lựa chọn thứ 2 hoặc thứ 3 đối với bệnh nhân có chỉ định bắt buộc dùng thuốc chẹn beta như bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành hoặc suy tim mạn.

Điều chỉnh lối sống

Các bệnh nhân tăng huyết áp cần tăng cường hoạt động thể chất, giảm cân và điều chỉnh chế độ ăn. Dù bệnh nhân có cần thiết phải sử dụng thuốc để đạt mức huyết áp mục tiêu hay không thì việc điều chỉnh lối sống đóng vai trò quan trọng trong liệu pháp điều trị tăng huyết áp. “Chế độ ăn kiêng để loại trừ tăng huyết áp” (The Dietary Approaches to Stop Hypertension) nhấn mạnh đến việc tăng lượng rau quả, các thực phẩm từ sữa ít béo, thịt nạc và hạn chế ăn chất béo bão hòa

Thêm vào đó, việc giảm lượng muối và đồ uống có cồn cũng góp phần đáng kể vào việc làm giảm huyết áp. Việc thực hiện một chế độ ăn uống khỏe mạnh cùng với việc tăng hoạt động thể chất hàng ngày góp phần làm tăng hiệu quả điều trị bằng các thuốc chống điều trị huyết áp và đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được huyết áp mục tiêu.

 Tham khảo các dòng thuốc điều trị huyết áp của shop thuốc tây đặc trị tại đây

Nhận xét